Thực hiện cam kết tại COP26 về mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam đang tích cực xây dựng và hoàn thiện thị trường các-bon trong nước. Đây được xem là một trong những công cụ kinh tế hiệu quả nhất giúp giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy đổi mới công nghệ và tạo động lực cho tăng trưởng xanh.
Định giá các-bon là giải pháp đã được hơn 70 quốc gia áp dụng, dưới hình thức thuế các-bon hoặc hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS). Cơ chế này đặt ra giá cho mỗi tấn khí CO₂ phát thải, qua đó khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp giảm lượng phát thải, đầu tư công nghệ sạch và sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng.
Theo Ngân hàng Thế giới, đến năm 2022, tổng giá trị thị trường các-bon toàn cầu đã vượt 100 tỷ USD, trở thành xu hướng chủ đạo trong các chính sách khí hậu hiện nay.
Tại Việt Nam, cơ sở pháp lý cho việc hình thành và vận hành thị trường các-bon đã được quy định tương đối đầy đủ trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nổi bật là Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, cùng Nghị định số 119/2025/NĐ-CP vừa ban hành tháng 6/2025 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều, đồng thời hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường các-bon trong nước.
Ảnh minh hoạTheo đó, Việt Nam sẽ thí điểm sàn giao dịch các-bon từ nay đến năm 2028, tiến tới vận hành chính thức từ năm 2029.
Trong giai đoạn đầu, khoảng 150 cơ sở phát thải lớn trong các lĩnh vực như sản xuất thép, xi măng và nhiệt điện sẽ được phân bổ hạn ngạch phát thải và tham gia cơ chế trao đổi tín chỉ. Cơ chế thí điểm áp dụng nguyên tắc “100% hạn ngạch miễn phí”, cho phép doanh nghiệp giao dịch, bù trừ hoặc chuyển nhượng lượng phát thải chưa sử dụng, đồng thời vay mượn tối đa 15% hạn ngạch của kỳ tiếp theo để nộp trả.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng thiết lập hệ thống đăng ký quốc gia, cơ sở dữ liệu và hạ tầng kỹ thuật phục vụ sàn giao dịch tín chỉ các-bon. Các doanh nghiệp được khuyến khích tham gia vào các cơ chế hợp tác quốc tế như Cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế tín chỉ chung với Nhật Bản (JCM) hay các cơ chế theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris (bao gồm Điều 6.2 – hợp tác song phương và Điều 6.4 – cơ chế giảm phát thải có chứng nhận quốc tế). Đây là những công cụ giúp doanh nghiệp trong nước tạo tín chỉ các-bon từ các dự án giảm phát thải và giao dịch với đối tác toàn cầu.
Theo ThS. Nguyễn Văn Minh - Trưởng phòng Thị trường các-bon, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, việc hình thành thị trường các-bon không chỉ mang ý nghĩa môi trường mà còn mở ra cơ hội kinh tế lớn. Thị trường các-bon sẽ tạo dòng tài chính mới cho các hoạt động giảm phát thải, thúc đẩy đổi mới công nghệ xanh và giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. Các doanh nghiệp giảm phát thải hiệu quả sẽ được cấp tín chỉ, có thể bán hoặc sử dụng để bù trừ nghĩa vụ phát thải, qua đó tối ưu chi phí sản xuất và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu vốn ngày càng đòi hỏi tiêu chuẩn xanh.
ThS. Nguyễn Văn Minh - Trưởng phòng Thị trường các-bon, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trườngTính đến nay, Việt Nam đã có hơn 250 dự án được đăng ký tạo tín chỉ các-bon, trong đó hơn 70 dự án được cấp tín chỉ với tổng khối lượng trên 25 triệu tấn CO₂ tương đương. Một số dự án tiêu biểu có thể kể đến như Dự án thu hồi và sử dụng khí đồng hành tại mỏ Rạng Đông, mang lại hơn 8,8 triệu tín chỉ, tương đương khoảng 2.500 tỷ đồng lợi ích kinh tế. Ngoài các dự án CDM truyền thống, Việt Nam cũng đã có hàng chục dự án đạt chứng nhận theo các tiêu chuẩn quốc tế như VCS (Verified Carbon Standard) hay Gold Standard (GS), mở rộng khả năng tiếp cận thị trường tín chỉ tự nguyện toàn cầu.
Nghị định 119/2025/NĐ-CP không chỉ bổ sung các quy định kỹ thuật liên quan đến đo lường, báo cáo và thẩm định phát thải khí nhà kính, mà còn đơn giản hóa thủ tục hành chính, đảm bảo tất cả quy trình giao dịch, cấp tín chỉ và nộp trả hạn ngạch đều được thực hiện trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia. Việc này giúp tăng tính minh bạch, giảm chi phí và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia.
Theo lộ trình, đến năm 2030, Việt Nam sẽ hoàn thiện toàn bộ hạ tầng và thể chế cho thị trường các-bon trong nước, đồng thời kết nối với các thị trường khu vực và quốc tế. Khi đó, doanh nghiệp không chỉ có nghĩa vụ kiểm kê và giảm phát thải mà còn có thể biến kết quả giảm phát thải thành tài sản tài chính, góp phần hình thành nền kinh tế các-bon thấp, vừa giảm phát thải, vừa có khả năng thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu.
Phát triển thị trường các-bon là bước đi tất yếu trong tiến trình hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam vào năm 2050. Với sự hoàn thiện khung pháp lý, sự tham gia tích cực của doanh nghiệp và hỗ trợ từ các đối tác quốc tế, Việt Nam đang dần định hình một thị trường minh bạch, hiệu quả nơi “giá” của carbon trở thành động lực thực sự cho chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.
​​​​​​​
Minh Khuê