Trước tác động ngày càng rõ rệt của biến đổi khí hậu, Việt Nam cần vượt ra khỏi cách ứng phó bị động sau thiên tai để tiến tới một chiến lược hành động chủ động và dài hạn. Giải pháp nằm ở sự kết hợp đồng bộ giữa thể chế, công nghệ, hạ tầng và cộng đồng.
Tại Việt Nam, biến đổi khí hậu đang chuyển từ nguy cơ thành hiện thực, với những biểu hiện ngày càng khắc nghiệt và khó lường. Từ miền núi đến đồng bằng, từ đô thị đến vùng ven biển, mọi khu vực của Việt Nam đều đang chịu những tác động rõ rệt của biến đổi khí hậu. Sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan đã khiến đời sống, sản xuất và cả hệ thống hạ tầng đứng trước nhiều thách thức chưa từng có.
Đầu tháng 8 vừa qua, Hà Nội đã ghi nhận mức nhiệt là 40,3°C (tại trạm Láng), đây là mức nhiệt cao nhất trong tháng 8 từ trước tới nay. Đến tháng 9 và tháng 10, liên tiếp hứng chịu các trận bão cường độ lớn gây lũ quét, sạt lỡ ở nhiều tỉnh thành, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Còn tại đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng xâm nhập mặn và thiếu nước ngọt tiếp tục diễn biến nghiêm trọng, đe dọa sinh kế của người dân và sản xuất nông nghiệp.
Theo các chuyên gia khí tượng thủy văn, Việt Nam tuy không phải là quốc gia phát thải lớn nhưng lại nằm trong nhóm dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về một chiến lược ứng phó tổng thể, đồng bộ và dài hạn, thay vì chỉ chạy theo khắc phục hậu quả.
Tác động cực đoan của biến đổi khí hậu ngày càng hiện hữuĐể thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, các chuyên gia cho rằng, điều quan trọng trước tiên là phải hoàn thiện chính sách và thể chế. Hệ thống quy định về quản lý tài nguyên nước, phòng chống thiên tai, xâm nhập mặn hay sạt lở cần được rà soát và cập nhật thường xuyên, phù hợp hơn với diễn biến thực tế. Những cơ chế khuyến khích địa phương và doanh nghiệp tham gia các hoạt động giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng và phát triển kinh tế xanh cũng phải được triển khai mạnh mẽ, trở thành động lực để toàn xã hội cùng chung tay.
Mặt khác, công nghệ được coi là chìa khóa để nâng cao khả năng chống chịu. Một hệ thống cảnh báo sớm hiện đại, kết hợp dữ liệu vệ tinh với trí tuệ nhân tạo, sẽ giúp dự báo chính xác và kịp thời hơn, giảm thiểu thiệt hại cho người dân. Các cơ sở dữ liệu khí hậu cũng cần được mở rộng, minh bạch, để không chỉ cơ quan quản lý mà cả doanh nghiệp và cộng đồng đều có thể tiếp cận, từ đó chủ động lên phương án sản xuất và phòng chống rủi ro. Trong nông nghiệp, việc nghiên cứu và nhân rộng những giống cây trồng, vật nuôi có khả năng chịu hạn, chịu mặn sẽ giúp bà con thích ứng linh hoạt hơn với điều kiện khắc nghiệt.
Hệ thống quan trắc, cảnh báo cháy rừng (Ảnh: Asin)Ở góc độ hạ tầng, cần tính đến yếu tố đầu tư dài hạn. Hệ thống đê điều, trạm bơm, hồ chứa và các công trình thoát nước cần được nâng cấp và mở rộng, đặc biệt tại các đô thị lớn và những vùng trọng điểm nông nghiệp. Tại những nơi thường xuyên hứng chịu lũ quét, sạt lở, cần có kế hoạch di dời dân cư tới vùng an toàn, đồng thời quy hoạch lại không gian sống để đảm bảo tính bền vững lâu dài.
Bên cạnh đó, chuyển dịch năng lượng và phát triển kinh tế xanh được coi là giải pháp căn cơ để giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu. Việc giảm dần sự phụ thuộc vào than đá, mở rộng đầu tư vào năng lượng tái tạo, khuyến khích giao thông công cộng xanh và phát triển xe điện sẽ giúp Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu giảm phát thải. Để thúc đẩy, cần có thêm cơ chế tài chính xanh, các gói tín dụng ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng.
Và quan trọng hơn cả là sự tham gia của cộng đồng. Người dân cần được trang bị kiến thức và kỹ năng ứng phó thiên tai thông qua các chương trình tuyên truyền, giáo dục rộng khắp. Các tổ chức xã hội, đoàn thể có thể trở thành lực lượng nòng cốt trong việc lan tỏa lối sống xanh, bảo vệ rừng, trồng cây, giám sát và cảnh báo môi trường. Khi cộng đồng trở thành một phần của giải pháp, những chính sách và dự án ứng phó khí hậu mới thực sự phát huy hiệu quả.
Theo PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Việt Nam đang cập nhật Kịch bản biến đổi khí hậu quốc gia năm 2025 với các mô hình tiên tiến nhất, cho phép mô phỏng chi tiết các hiện tượng cực đoan theo từng vùng. “Việc hành động sớm, mạnh mẽ và có hệ thống chính là yếu tố quyết định để giảm thiểu tác động, bảo vệ cuộc sống của người dân và hướng tới phát triển bền vững”, bà Ngà nhấn mạnh.
​​​​​​​
Cục Biến đổi khí hậu