Sign In

Phát triển làng nghề Việt Nam trước thách thức biến đổi khí hậu

10:58 18/09/2025

Trước bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét và ô nhiễm môi trường là một trong những nguyên nhân gây nên sự thay đổi khí hậu toàn cầu, việc phát triển làng nghề theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường đang trở thành một yêu cầu cấp thiết.

Theo GS.TS Đặng Kim Chi, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, các làng nghề Việt Nam là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như sản xuất thủ công, cung ứng dịch vụ quy mô nhỏ, có sự tham gia của nhiều thành phần như hộ gia đình, hợp tác xã và doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, không ít làng nghề phát sinh lượng chất thải lớn, gây ra ô nhiễm nguồn nước, không khí và đất, góp phần làm gia tăng phát thải khí nhà kính, gây nên biến đổi khí hậu.

Làng nghề mây, tre đan Phú Vinh mang lại thu nhập ổn định cho người dân

Trước cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam tại COP26, việc chuyển đổi mô hình sản xuất tại các làng nghề theo hướng xanh, tuần hoàn và tiết kiệm tài nguyên không chỉ là lựa chọn đúng đắn mà còn là đòi hỏi bắt buộc để thích ứng với xu thế toàn cầu. Mô hình sản xuất xanh sẽ giúp các làng nghề vừa bảo vệ môi trường, vừa nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước lẫn quốc tế.

Thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho thấy cả nước hiện có khoảng 5.400 làng nghề, trong đó có hơn 1.700 làng nghề truyền thống, tạo việc làm cho hơn 11 triệu lao động, đóng góp trung bình 3,3 tỷ USD/năm vào kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu đặt ra của toàn ngành là đạt 4 tỷ USD vào năm 2025 và 6 tỷ USD vào năm 2030.

Sự chuyển mình tích cực

Là địa phương có số lượng làng nghề nhiều nhất cả nước, Hà Nội đã tích cực tổ chức nhiều chương trình kết nối sản xuất và tiêu dùng bền vững. Nhiều cơ sở đã chủ động đầu tư công nghệ mới, ứng dụng chuyển đổi số để giảm phát thải. Đơn cử, nhiều cơ sở sản xuất tại làng gốm Bát Tràng đã thay thế lò nung than truyền thống bằng lò khí gas hóa lỏng.

Chi phí đầu tư lò gas cao gấp 8 lần lò than, nhưng về dài hạn, hiệu quả kinh tế và môi trường đều vượt trội. Sự thay đổi này không chỉ giúp giảm thiểu khí thải độc hại, mà còn giúp giảm đán kể chi phí. Ước tính chi phí sản xuất một chiếc bình dùng lò nung gas rẻ hơn 20%, sản xuất một bộ bát đĩa sẽ rẻ hơn 60% so với dùng lò nung bằng than”, ông Lê Đức Trọng, Giám đốc Công ty Cổ phần Thiết kế và Sản xuất Gốm sứ Bát Tràng cho biết.

Việc sử dụng lò gas trong sản xuất gốm sứ tại Bát Tràng không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn giúp giảm phát thải ra môi trường

Tại làng gốm cổ Kim Lan (Gia Lâm, Hà Nội), nhờ tham gia chương trình xây dựng mạng lưới liên kết, hợp tác sản xuất và tiêu dùng bền vững do Sở Công Thương Hà Nội triển khai, nhiều doanh nghiệp đã chủ động chuyển đổi theo hướng “xanh hóa” sản xuất. Các cơ sở tại đây được hỗ trợ đổi mới công nghệ, cập nhật thường xuyên các tiêu chuẩn sản xuất xanh, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời giảm thiểu phát thải ra môi trường. Đây là bước đi quan trọng góp phần giúp làng nghề thích ứng với yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.

Tính đến nay Huế được cho là một trong những nơi sản xuất nón lá lớn nhất của cả nước (Ảnh: langngheviet.com)

Không chỉ riêng Hà Nội, nhiều làng nghề khắp cả nước như làng chiếu cói Nam Định (nay thuộc Ninh Bình), làng giấy dó Bắc Ninh, làng nón Huế hay làng dệt thổ cẩm Tây Nguyên cũng đang tích cực chuyển đổi, áp dụng các công nghệ sạch, tận dụng năng lượng tái tạo và giảm thiểu rác thải. Những nỗ lực này là minh chứng cho khả năng thích ứng khí hậu của cộng đồng làng nghề nếu được hỗ trợ đúng hướng.

Giải quyết các khó khăn

Dù đã phần nào cho thấy sự chuyển mình tích cực, tuy vậy, hành trình xanh hóa làng nghề vẫn gặp nhiều rào cản đến từ việc thiếu vốn đầu tư, công nghệ lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ lẻ và nhận thức hạn chế của người lao động. Phần lớn các cơ sở vẫn sử dụng thiết bị cũ, không có hệ thống xử lý nước thải, khí thải đạt chuẩn. Trong khi đó, việc tiếp cận tín dụng xanh, công nghệ xử lý rác thải hay tiêu chuẩn carbon còn hạn chế.

Theo Nhà giáo ưu tú Trịnh Quốc Đạt, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, cần phải thay đổi tư duy quy hoạch làng nghề theo hướng gắn chặt với bảo vệ môi trường. Những công đoạn gây ô nhiễm nặng như mạ kim loại, sấy lưu huỳnh hay kéo kén nên được di dời khỏi khu dân cư. Quy hoạch đồng bộ sẽ giúp giữ gìn không gian văn hóa truyền thống mà vẫn đảm bảo tiêu chuẩn khí hậu.

Nhà giáo ưu tú (NGƯT) Trịnh Quốc Đạt, Chủ tịch Hiệp Hội làng nghề Việt Nam

Về mặt chính sách, PGS.TS Bùi Thị An - Viện trưởng Viện Tài nguyên, môi trường và Phát triển cộng đồng cho rằng, cần có cơ chế xã hội hóa nguồn lực để xây dựng hệ thống thu gom, xử lý chất thải quy mô cụm làng nghề. Nếu không có đầu tư hạ tầng môi trường và công nghệ xanh, mục tiêu phát triển bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu sẽ khó khả thi.

Đặc biệt, cần nâng cao nhận thức và năng lực sản xuất xanh cho người lao động. Các chương trình đào tạo về sử dụng nguyên liệu hiệu quả, tái chế, kỹ năng sản xuất sạch hơn cần được triển khai rộng rãi. Tích hợp nội dung kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải vào chương trình giáo dục nghề cũng sẽ tạo ra thế hệ kế thừa có tư duy đổi mới và trách nhiệm với môi trường.

Trong thời đại số, công nghệ thông tin cũng là công cụ đắc lực để làng nghề tiếp cận thị trường xanh. Các nền tảng thương mại điện tử, website truy xuất nguồn gốc, mã QR minh bạch thông tin môi trường hay livestream bán hàng là những cách giúp sản phẩm thủ công tiếp cận người tiêu dùng hiện đại- những khách hàng vốn ngày càng ưu tiên yếu tố “xanh” trong lựa chọn mua sắm.

Một phiên livestream của làng nghề Phú Xuyên (Ảnh: KTĐT)

Cuối cùng, vai trò điều phối của Nhà nước có ý nghĩa then chốt. Các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển làng nghề gắn với lộ trình giảm phát thải, đảm bảo đồng bộ chính sách, quy hoạch, tín dụng và hạ tầng kỹ thuật. Đồng thời, huy động các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp cùng tham gia đào tạo, giám sát và hỗ trợ làng nghề tiếp cận các công nghệ sản xuất sạch hơn, giảm phát thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu.

Làng nghề là “tế bào” văn hóa và kinh tế của nông thôn Việt Nam. Nếu được chuyển đổi đúng hướng, chúng không chỉ là nơi giữ gìn truyền thống mà còn có thể trở thành mô hình sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, góp phần vào mục tiêu phát triển kinh tế xanh, bền vững và có trách nhiệm toàn cầu.

​​​​​​​

Thanh Xuân

Bình luận

Bài viết cùng chuyên mục

Giải pháp tái chế lưới đánh bắt cũ, góp phần giảm hơn 1.300 tấn túi nilon

Tăng cường năng lực truyền thông ứng phó biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long

Hiệu quả bước đầu từ mô hình lúa chất lượng cao, phát thải thấp

Phát triển làng nghề Việt Nam trước thách thức biến đổi khí hậu

Hà Nội ban hành Kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Phát triển kinh tế tuần hoàn hướng đến phát thải ròng bằng “0”