Trong lĩnh vực năng lượng, hoạt động khai thác than và dầu khí là hai nguồn phát thải lớn nhất. Nếu không kiểm soát, lượng khí mê-tan phát thải sẽ tiếp tục gia tăng, gây áp lực nặng nề lên mục tiêu giảm phát thải và cam kết trung hòa carbon vào giữa thế kỷ.
Chia sẻ tại Hội thảo tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm phát thải khí mê-tan ngày 25/9/2025, ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền, Phó Trưởng phòng Môi trường và Phát triển bền vững, Viện Năng lượng, Bộ Công Thương cho biết: Trong bức tranh phát thải khí nhà kính của Việt Nam, lĩnh vực năng lượng luôn là nguồn đóng góp chính, trong đó khai thác than và dầu khí chiếm tỷ trọng rất lớn. Theo kết quả kiểm kê năm cơ sở 2020, lượng phát thải khí mê tan ngành than là 3.458 GgCO₂, phần lớn từ khai thác và sau khai thác hầm lò.
Đối với khai thác chế biến dầu và khí tự nhiên, tỷ trọng phát thải khí mê tan chiếm khoảng 10.562 ktCO₂tđ, chiếm gần 70% tổng phát thải mê-tan trong toàn lĩnh vực năng lượng. Nguồn phát thải chính đến từ hoạt động xả khí có chủ đích, rò rỉ thiết bị, cũng như đốt bỏ khí đồng hành trong quá trình khai thác.
ThS Nguyễn Thị Thu Huyền, Phó tưởng phòng Môi trường và Phát triển bền vững, Viện Năng lượng, Bộ Công Thương chia sẻ tiềm năng trong giảm phát thải khí mê tan trong lĩnh vực khai thác, chế biến than và dầu khí“Nếu không có biện pháp kiểm soát, lượng phát thải từ hai ngành này sẽ tiếp tục gia tăng. Với ngành than, dự báo đến năm 2030, phát thải có thể vượt mức 4.800 GgCO₂tđ, đặc biệt do tỷ trọng khai thác hầm lò vẫn duy trì cao. Với dầu khí, con số này thậm chí có thể lên tới 14.300 ktCO₂tđ, tăng khoảng 35% so với năm 2020. Điều này đặt ra thách thức rất lớn đối với cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam vào năm 2050.” Ths Nguyễn Thu Huyền nhấn mạnh.
Hướng đi bền vững
Bên cạnh những thách thức lớn, tiềm năng giảm phát thải trong khai thác, chế biến than và dầu khí cũng rất đáng kể. Trong khai thác than, nhiều giải pháp kỹ thuật mang lại hiệu quả cắt giảm vượt trội đã được nghiên cứu và áp dụng như: hiện đại hóa công nghệ, tiết kiệm năng lượng, cho đến biện pháp khoan tháo khí trước, trong và sau khai thác. Ước tính đến năm 2030, ngành than có thể giảm hơn 2.836 GgCO₂ tđ khí mê-tan, tức khoảng 42,5% so với năm 2020. Trong đó, giải pháp khoan tháo khí tại các mỏ mới và mỏ mở rộng mang lại hiệu quả lớn nhất, với mức cắt giảm gần 2.000 GgCO₂tđ. Các mỏ than ở Cẩm Phả và Uông Bí nếu triển khai hệ thống tháo khí cũng có thể giảm thêm gần 864 GgCO₂tđ. Đây không chỉ là biện pháp giảm phát thải, mà còn giúp nâng cao an toàn hầm lò, giảm nguy cơ cháy nổ khí.
Ước tính đến năm 2030, ngành than có thể giảm hơn 2.836 GgCO₂ tđ khí mê-tan (Ảnh: baoquangninh)Ngành dầu khí cũng cho thấy tiềm năng giảm phát thải tương đương. Các giải pháp trọng tâm bao gồm triển khai chương trình phát hiện và sửa chữa rò rỉ (LDAR), lắp đặt cụm thu hồi hơi (VRU), thu gom khí đồng hành ở các mỏ nhỏ, tối ưu hóa quy trình vận hành và thay thế thiết bị phát thải cao. Nếu áp dụng đồng bộ, ngành dầu khí có thể giảm khoảng 3.169 ktCO₂ tđ khí mê-tan vào năm 2030, tương ứng 30% so với mức 2020 và gần 22% so với tổng phát thải dự báo năm 2030.
Lộ trình hành động cho hai ngành đã được xác định rõ ràng trong Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030 (Quyết định số 942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về việc phê duyệt Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030). Với ngành than, giai đoạn 2023-2024 tập trung xây dựng và vận hành thử nghiệm các trạm tháo khí, từ 2025-2028 mở rộng triển khai tại các mỏ lớn, và đến 2029-2030 áp dụng đồng loạt trên toàn ngành. Còn trong dầu khí, chú trọng hoàn thiện các giải pháp quản lý, ban hành quy định hạn chế đốt và xả khí, đồng thời thí điểm LDAR. Giai đoạn 2025-2030 sẽ đẩy mạnh đầu tư dài hạn vào công nghệ thu hồi và sử dụng khí, cũng như hoàn thiện khung pháp lý về tín chỉ carbon để khuyến khích doanh nghiệp tham gia thị trường.
Cần ưu tiên phát triển kinh tế tuần hoàn ngành dầu khí (Ảnh: vietsovpetro)Các chuyên gia cho rằng, điểm chung đáng chú ý là cả hai ngành đều có khả năng “biến” chất thải thành tài nguyên. Với than, khí mê-tan thu hồi có thể được xử lý và cung cấp cho công nghiệp, dân dụng hoặc phát điện. Với dầu khí, thay vì đốt bỏ gây lãng phí, lượng khí đồng hành hoàn toàn có thể được tái sử dụng, góp phần tăng hiệu quả năng lượng và giảm chi phí sản xuất. Đây cũng là cách để Việt Nam tận dụng cơ hội kinh tế từ chuyển đổi xanh, khi các sản phẩm năng lượng ít phát thải ngày càng được ưa chuộng trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, thách thức không nhỏ vẫn còn hiện hữu. Đầu tư công nghệ hiện đại, đặc biệt là hệ thống thu hồi và xử lý khí, đòi hỏi nguồn vốn lớn trong khi năng lực tài chính của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc thay đổi thói quen sản xuất, áp dụng quy trình mới tại các mỏ than, cơ sở khai thác và chế biến dầu khí cũng đòi hỏi sự đồng thuận, đào tạo và nâng cao nhận thức cho người lao động.
Dù còn khó khăn, triển vọng giảm phát thải khí mê-tan trong khai thác than và dầu khí tại Việt Nam là rất khả quan. Những kết quả dự báo cho thấy, nếu hai lĩnh vực cùng đạt mục tiêu, Việt Nam có thể giảm hàng triệu tấn CO₂tđ khí mê-tan mỗi năm vào cuối thập kỷ này. Việc cắt giảm phát thải không chỉ bảo vệ môi trường mà còn giúp tăng an toàn lao động, tiết kiệm năng lượng và tận dụng hiệu quả nguồn khí đốt, mang lại lợi ích cả về kinh tế lẫn xã hội.
Rõ ràng, giảm phát thải khí mê-tan hiện không còn là biện pháp tình thế mà đã trở thành hướng đi chiến lược cho ngành năng lượng Việt Nam. Đây là bước đi quan trọng để ngành than và dầu khí vừa phát triển bền vững, vừa đồng hành cùng cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Đồng thời, việc triển khai hiệu quả các giải pháp giảm phát thải giúp Việt Nam khẳng định vai trò tiên phong trong thực hiện các cam kết khí hậu toàn cầu.
​​​​​​​
Tuệ Lâm