Tại Hội nghị COP26 năm 2021, Việt Nam đã gây tiếng vang lớn khi cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, một tuyên bố thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ của quốc gia đang phát triển trong cuộc chiến toàn cầu chống biến đổi khí hậu. Hơn ba năm sau, các nỗ lực hiện thực hóa cam kết đó đã dần đi vào chiều sâu, lan tỏa từ cấp Chính phủ, bộ ngành đến doanh nghiệp và cộng đồng.
Ngay sau COP26, Việt Nam đã khẩn trương thể chế hóa cam kết bằng việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng 0, do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu, nhằm thống nhất chỉ đạo xuyên suốt từ trung ương tới địa phương. Nhiều chính sách then chốt được ban hành như Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050 (Quyết định 896/QĐ-TTg), Đề án triển khai kết quả COP26 (Quyết định 888/QĐ-TTg), cùng với các văn bản pháp lý quan trọng như Nghị định 06/2022/NĐ-CP và Nghị định 119/2025/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn.
Chuỗi Hội nghị triển khai thục hiện các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26Đáng chú ý, việc phát triển thị trường các-bon trong nước cũng đã được Chính phủ xác định là công cụ kinh tế trọng yếu giúp doanh nghiệp giảm phát thải hiệu quả, đồng thời tạo nguồn tài chính mới cho quá trình chuyển đổi xanh. Cùng với đó, Quy hoạch điện VIII đã đặt nền tảng cho quá trình chuyển đổi năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời.
Theo TS. Lương Quang Huy - Trưởng phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ô-dôn, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trên thực tế, các Bộ, ngành đang triển khai nhiều chương trình hành động cụ thể. Bộ Nông nghiệp và Môi trường giữ vai trò đầu mối trong việc kiểm kê khí nhà kính quốc gia, xây dựng hệ thống giám sát - báo cáo - thẩm định (MRV) và tổng hợp kế hoạch giảm phát thải của từng lĩnh vực. Bộ Công Thương tập trung giảm phát thải trong sản xuất công nghiệp và năng lượng; Bộ Giao thông Vận tải đẩy mạnh chương trình chuyển đổi năng lượng xanh trong vận tải; Bộ Xây dựng triển khai phát triển đô thị xanh, vật liệu các-bon thấp.
TS. Lương Quang Huy - Trưởng phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ô-dôn, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trườngTrong lĩnh vực năng lượng, Việt Nam đang thúc đẩy chuyển đổi nhiên liệu, mở rộng tỷ trọng năng lượng tái tạo và đẩy mạnh hiệu quả sử dụng năng lượng trong công nghiệp, giao thông và tòa nhà. Các chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm, cùng hàng loạt dự án điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối được triển khai mạnh mẽ, vừa giảm phát thải vừa thúc đẩy kinh tế xanh.
Lĩnh vực nông nghiệp cũng ghi nhận nhiều thay đổi đáng kể. Các biện pháp như “1 phải 5 giảm”, tưới ngập khô xen kẽ (AWD), hay xử lý phụ phẩm nông nghiệp thay vì đốt bỏ đã giúp giảm phát thải khí mê-tan (CH₄) rõ rệt, đồng thời cải thiện năng suất và chất lượng nông sản. Đặc biệt, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang được triển khai, hứa hẹn trở thành hình mẫu về canh tác bền vững, thích ứng và giảm phát thải.
Ngành lâm nghiệp tiếp tục giữ vai trò then chốt trong hấp thụ và lưu giữ các-bon. Chính sách đóng cửa rừng tự nhiên, chương trình trồng và tái sinh rừng, cùng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) đã giúp tăng độ che phủ rừng lên hơn 42%, đồng thời tạo sinh kế ổn định cho hàng triệu người dân vùng cao. Việt Nam cũng đang tích cực đàm phán các thỏa thuận quốc tế về chi trả giảm phát thải rừng (ERPA), mở rộng khả năng tham gia thị trường tín chỉ các-bon toàn cầu.
Ở lĩnh vực quản lý chất thải và công nghiệp, nhiều địa phương đã đẩy mạnh phân loại rác tại nguồn, phát triển nhà máy đốt rác phát điện và các dự án khí sinh học. Các ngành công nghiệp nặng như xi măng, thép, hóa chất từng bước áp dụng công nghệ carbon thấp, thu hồi khí phát thải và chuyển sang sử dụng nguyên liệu thay thế. Theo tính toán của Cục Biến đổi khí hậu, tổng tiềm năng giảm phát thải của Việt Nam đến năm 2030 có thể đạt hơn 600 triệu tấn CO₂ tương đương, trong đó lĩnh vực năng lượng chiếm hơn 150 triệu tấn, công nghiệp khoảng 200 triệu tấn và nông nghiệp gần 100 triệu tấn.
Không chỉ Chính phủ và các bộ ngành, khu vực doanh nghiệp cũng đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tiến trình này. Nhiều tập đoàn lớn như Vinamilk, Heineken, Sabeco, Biti’s, May 10... đã chủ động xây dựng chiến lược Net Zero riêng, đầu tư vào năng lượng tái tạo, sử dụng chứng chỉ năng lượng sạch (RECs), tối ưu chuỗi cung ứng và triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn. Nhiều doanh nghiệp tham gia các sáng kiến quốc tế như “Race to Zero” hay “Science Based Targets”, thể hiện vai trò tiên phong của khu vực tư nhân Việt Nam trong chuyển đổi xanh.
Dù vậy, Việt Nam vẫn đối mặt với không ít thách thức do guồn lực tài chính còn hạn chế, công nghệ xanh chưa được phổ cập, khung pháp lý vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, và đặc biệt là thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực giảm phát thải và quản lý carbon. Nhận thức cộng đồng về phát thải vẫn cần được nâng cao để chuyển từ ứng phó bị động sang hành động chủ động, toàn diện.
TS. Lương Quang Huy khẳng định: Để đạt được Net Zero vào năm 2050, Việt Nam cần triển khai đồng bộ cả hai hướng từ hoàn thiện thể chế, chính sách ở tầm vĩ mô cho đến nâng cao năng lực hành động ở cấp cơ sở. TS Huy cho rằng, lộ trình tới 2050 đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả khối doanh nghiệp, tổ chức tài chính và người dân, bởi mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược Net Zero riêng, còn mỗi người dân cần góp phần bằng những thay đổi nhỏ trong thói quen tiêu dùng và sinh hoạt.
Với quyết tâm chính trị mạnh mẽ, khung pháp lý đang dần hoàn thiện, sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp và hỗ trợ quốc tế, Việt Nam đang từng bước hiện thực hóa cam kết Net Zero để hướng tới một nền kinh tế các-bon thấp, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
​​​​​​​
Tuệ Lâm