Thay vì bị đốt bỏ lãng phí, rơm rạ, trấu hay vỏ cà phê có thể được tận dụng tạo ra than sinh học biochar, vừa giảm phát thải khí nhà kính, vừa thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn.
Biochar không chỉ đơn thuần là một công nghệ mới, mà còn là cầu nối giữa nông nghiệp truyền thống và nông nghiệp tuần hoàn phát thải thấp.
Biến rác thải thành tài nguyên
Mỗi năm, ngành nông nghiệp Việt Nam tạo ra một khối lượng phụ phẩm khổng lồ. Theo Viện Tăng trưởng Xanh Toàn cầu (GGGI), riêng năm 2024, con số này lên tới 156,8 triệu tấn, bao gồm rơm rạ, thân cây ngô, bã sắn, lá mía, trấu, vỏ cà phê… Khoảng 24,8% trong số đó được tận dụng cho chăn nuôi, làm phân bón hay nhiên liệu truyền thống.
Phần lớn các phụ phẩm nông nghiệp hiện nay đang bị đốt hoặc phân hủy ngoài môi trường, phát sinh lượng lớn khí metan (CH₄), nitơ oxit (N₂O) - những loại khí nhà kính gây hiệu ứng nóng lên toàn cầu mạnh gấp nhiều lần CO₂ thông thường.
Riêng tại Đồng bằng sông Cửu Long, mỗi vụ Đông Xuân phát sinh khoảng 7 triệu tấn rơm rạ. 70% bị đốt bỏ, vừa gây ô nhiễm không khí, ảnh hưởng sức khỏe người dân, vừa đi ngược lại mục tiêu giảm phát thải quốc gia.
Vỏ trấu là nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất than sinh học (Ảnh: minh hoạ)Trong bối cảnh đó, biochar được coi là giải pháp hứa hẹn để biến phế thải thành tài nguyên. Biochar là sản phẩm được tạo ra từ quá trình nhiệt phân phụ phẩm nông nghiệp trong điều kiện yếm khí, tạo ra một loại than giàu carbon, có cấu trúc xốp, bền vững hàng trăm năm khi được bón vào đất.
Theo TS. Đỗ Thị Hương, chuyên gia Nông nghiệp bền vững thuộc GGGI Việt Nam, biochar mang lại nhiều giá trị cùng lúc như vừa cải thiện cấu trúc đất, tăng độ tơi xốp và khả năng giữ ẩm, giữ dinh dưỡng, giảm rửa trôi; giúp nông dân tiết kiệm chi phí phân bón nhờ giảm thất thoát dinh dưỡng; đồng thời cố định cacbon trong đất, góp phần cắt giảm phát thải CO₂, CH₄ và N₂O.
Biochar còn có thể kết hợp với phân chuồng, phân hữu cơ để nâng cao hiệu quả cải tạo đất, thúc đẩy mô hình canh tác hữu cơ và nông nghiệp tuần hoàn.
Ngoài lĩnh vực nông nghiệp, biochar còn được nghiên cứu ứng dụng trong xử lý nước thải, hấp thụ kim loại nặng hay làm vật liệu xây dựng thân thiện môi trường.
Cấu trúc xốp của than sinh học - biochar (Ảnh: Wasi)Hiểu được giá trị của biochar, một số doanh nghiệp trong nước đã tiên phong ứng dụng biochar và bước đầu ghi nhận kết quả tích cực. Tại cụm công nghiệp Bãi Bùi (Thanh Hóa), mỗi ngày Công ty Bamboo King Vina (BKV) chế biến khoảng 1.500 tấn tre và gỗ, đồng thời phát sinh 800 - 900 tấn phụ phẩm như cành, lá, rễ, vụn tre và mùn cưa. Nếu trước đây lượng phế thải này chủ yếu bị đốt bỏ hoặc để mục ngoài trời, gây phát thải CO₂, CH₄ và bụi, thì từ giữa năm 2023 doanh nghiệp đã khởi động dự án “Than sinh học Bamboo King Vina”, đầu tư 6 dây chuyền nhiệt phân công nghệ cao.
Công nghệ này xử lý sinh khối trong môi trường yếm khí ở 600 - 800°C, giữ lại carbon trong sản phẩm biochar, đồng thời tận dụng khí sinh ra để vận hành lò, giảm tối đa phát thải ra môi trường. Với công suất thiết kế 47.520 tấn biochar/năm, nhà máy có thể giảm và loại bỏ khoảng 112.000 tấn CO₂tđ/năm, tương đương gần 784.000 tấn trong 7 năm đầu. Lượng phát thải được kiểm định quốc tế và quy đổi thành tín chỉ carbon (VCUs) thuộc quyền sở hữu của BKV. Đây được xem là tín chỉ loại bỏ carbon (carbon removal) vốn đang có giá chào bán 100-300 đô la/tín chỉ.
Trước đó, mô hình biochar từ phụ phẩm nông nghiệp đã thử nghiệm thành công ở quy mô nông hộ từ vỏ lạc tại Thừa Thiên Huế, vỏ ca cao tại Đắk Lắk và với rơm rạ ở Sóc Trăng. Sản phẩm giúp loại bỏ carbon này đem lại tiềm năng trong việc thực hiện cam kết NDC (quốc gia tự quyết định) của Việt Nam, tiến tới mục tiêu Netzero vào 2050, theo TS Vũ Dương Quỳnh, Viện Môi trường Nông nghiệp
Hướng tới hệ sinh thái biochar bền vững
Dù tiềm năng lớn, thị trường biochar ở Việt Nam hiện vẫn còn khá hạn chế. Giá sản phẩm dao động từ 2 đến 12 triệu đồng mỗi tấn, tuy nhiên tổng giá trị thị trường trong nước chỉ khoảng 1.200 tỷ đồng/năm, con số khiêm tốn so với lượng phụ phẩm nông nghiệp khổng lồ đang bị bỏ phí.
Mặt khác, biochar có thể trở thành nguồn tín chỉ carbon giá trị, giúp nông dân và doanh nghiệp gia tăng thu nhập ngoài lợi ích cải tạo đất. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có cơ chế công nhận hay hướng dẫn về đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV).
Theo ông Vũ Thanh Liêm - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường: “Hiện vẫn thiếu những quy định về tiêu chuẩn hóa và kiểm soát chất lượng sản phẩm than sinh học, thiếu sự hợp tác giữa các bên liên quan và công nghệ nhiệt phân chưa được công nhận như một công nghệ xanh, gây cản trở việc ứng dụng rộng rãi.”
Ảnh: biocharvietnamĐể biochar thực sự trở thành một giải pháp bền vững, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần triển khai đồng bộ nhiều bước. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sớm ban hành các quy định công nhận biochar trong hệ thống MRV và tích hợp vào thị trường carbon nội địa.
Tiếp đó là xây dựng các mô hình thí điểm tại những vùng có nguồn phụ phẩm dồi dào như rơm rạ tại Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên với vỏ cà phê hay Bắc Trung Bộ với, mía, ngô và sắn. Những mô hình này cần gắn với hợp tác xã để nông dân có thể trực tiếp hưởng lợi.
Ngoài ra, cần khuyến khích tài chính xanh thông qua nguồn vốn từ các quỹ khí hậu và tổ chức quốc tế, hỗ trợ đầu tư vào công nghệ nhiệt phân quy mô nhỏ và trung bình. Đào tạo, nâng cao nhận thức, chứng minh lợi ích kinh tế - xã hội cho nông dân cũng là bước quan trọng để thúc đẩy sự tham gia từ cơ sở. Cuối cùng, cần định vị biochar như một sản phẩm đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp hữu cơ và tuần hoàn, đồng thời mở rộng ứng dụng sang các lĩnh vực khác.
Một số chuyên gia khuyến nghị việc thành lập các trung tâm trình diễn biochar tại những vùng sản xuất trọng điểm sẽ tạo cơ hội thử nghiệm công nghệ, tổ chức đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, đồng thời kết nối nông dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Khi hệ sinh thái biochar hình thành, lợi ích sẽ không chỉ dừng lại ở nông nghiệp. Việt Nam có thể cắt giảm đáng kể phát thải khí nhà kính, cải thiện chất lượng không khí, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, tăng thu nhập cho nông dân thông qua cải thiện năng suất và tham gia thị trường carbon, đồng thời thu hút dòng vốn xanh từ quốc tế.
Theo đánh giá, Biochar không chỉ đơn thuần là một công nghệ mới, mà còn là cầu nối giữa nông nghiệp truyền thống và nông nghiệp tuần hoàn phát thải thấp. Từ những phụ phẩm tưởng chừng vô giá trị, giải pháp này mở ra cơ hội cải thiện sinh kế, giảm áp lực môi trường và tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Nếu được thúc đẩy đúng hướng, biochar hoàn toàn có thể trở thành một ngành công nghiệp xanh mới của Việt Nam, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát thải ròng bằng 0 và xây dựng nền nông nghiệp bền vững trong tương lai.
Tín chỉ carbon (carbon credit) là một loại giấy phép hoặc chứng chỉ có thể giao dịch, có giá trị mua bán và cung cấp cho người nắm giữ tín chỉ quyền phát thải một tấn CO2 hoặc loại khí thải khác nằm trong danh sách khí thải nhà kính. Thị trường carbon toàn cầu hiện đang “khát” biochar, khi nhiều doanh nghiệp chịu áp lực cắt giảm phát thải vào mốc giữa kỳ 2030 và hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) trong vài thập kỷ tới. Biochar được xem là loại tín chỉ loại bỏ carbon (CDR) chất lượng cao, có khả năng lưu giữ CO₂ trong đất hàng trăm đến hàng nghìn năm. 62% sản lượng biochar toàn cầu năm nay đã được ký hợp đồng dài hạn (theo chuyên trang Carbon Credits). Điều này khiến giá tín chỉ biochar tăng cao, dao động 100 - 200 USD/tín chỉ trong năm 2023, trong khi mức giá phổ biến trên thị trường carbon tự nguyện chỉ khoảng 5,8 USD/tín chỉ. |
​​​​​​​
Cục Biến đổi khí hậu