Sign In

Giải quyết bài toán xâm nhập mặn ở Việt Nam

08:59 14/12/2025

Việt Nam là quốc gia ven biển có địa hình đa dạng, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đồng bằng sông Hồng là hai vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi hiện tượng xâm nhập mặn. Đây không chỉ là hệ quả của biến đổi khí hậu toàn cầu với tình trạng nước biển dâng, mà còn là tác động cộng hưởng của các hoạt động phát triển ở thượng nguồn sông Mekong, làm suy giảm lượng nước ngọt đổ về hạ lưu.

Tác động nặng nề và những hệ lụy khó lường

Xâm nhập mặn xảy ra khi nước biển lấn sâu vào nội đồng thông qua hệ thống sông ngòi, kênh rạch hoặc thấm qua tầng đất ngầm. Tình trạng này gây ra hàng loạt hệ lụy nghiêm trọng như: làm giảm năng suất cây trồng, hư hại mùa màng, thiếu nước sinh hoạt và sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế hàng triệu người dân. Đặc biệt tại ĐBSCL, vùng sản xuất lúa gạo, thủy sản và trái cây lớn nhất cả nước, xâm nhập mặn đang đe dọa nghiêm trọng vai trò là vựa nông sản quốc gia.

Theo thông tin từ Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong mùa khô các năm gần đây, xâm nhập mặn tại ĐBSCL đã diễn ra với mức độ gay gắt hơn trung bình nhiều năm, có thời điểm lấn sâu tới 100 – 130km vào đất liền, vượt xa mức lịch sử ghi nhận vào năm 2016. Đáng chú ý, ranh mặn 4g/l là mức giới hạn tối đa cho sinh hoạt và tưới tiêu đã xuất hiện sớm và duy trì lâu, khiến hàng trăm nghìn hecta đất canh tác bị ảnh hưởng.

Từ ngày 24/2 đến ngày 04/3/2025 xâm nhập mặn bắt đầu tăng dần với chiều sâu ranh mặn 4 g/l lớn nhất ở các cửa sông Cửu Long (Ảnh: VnEconomy)

Tại các tỉnh ven biển như Đồng Tháp, Vĩnh Long, Hậu Giang, Trà Vinh, Cà Mau… người dân phải khoan giếng sâu hoặc vận chuyển nước ngọt từ nơi khác về để duy trì sinh hoạt tối thiểu. Nhiều khu vực bị thiếu nước nghiêm trọng đến mức trường học, trạm y tế và bệnh viện phải chia sẻ nguồn nước hoặc mua nước ngọt với chi phí cao.

Không chỉ tác động đến ngành sản xuất chủ lực tại ĐBSCL, xâm nhập mặn còn ảnh hưởng đến chất lượng nước cấp cho sinh hoạt và công nghiệp, phá vỡ cân bằng hệ sinh thái nước ngọt, lợ, mặn vốn rất nhạy cảm trong vùng. Việc thay đổi đột ngột độ mặn còn khiến các loài thủy sản bản địa chết hàng loạt, làm mất sinh kế truyền thống của nhiều hộ gia đình.

Sụt lún nền và bờ sông Hậu do khai thác nước ngầm quá mức

Ngoài ra, chi phí đầu tư cho các công trình ứng phó như cống ngăn mặn, hồ chứa nước ngọt, hệ thống tưới tiêu điều tiết cũng ngày càng gia tăng, tạo thêm gánh nặng ngân sách cho địa phương và Nhà nước.

Giải pháp ứng phó linh hoạt, thích nghi lâu dài

Để ứng phó với xâm nhập mặn, Chính phủ và các địa phương đã triển khai nhiều nhóm giải pháp đồng bộ. Về công trình, hàng loạt hệ thống cống ngăn mặn, kênh dẫn trữ nước ngọt, đê bao… được đầu tư xây dựng hoặc nâng cấp, điển hình như hệ thống cống ngăn mặn Cái Lớn - Cái Bé ở Kiên Giang, góp phần kiểm soát mặn và điều tiết nước ngọt cho hàng trăm nghìn hecta đất nông nghiệp. Một số tỉnh như Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cà Mau,… cũng đã triển khai xây dựng hồ trữ nước ngọt quy mô lớn để phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong mùa khô.

Song song với các giải pháp công trình, các biện pháp phi công trình đang ngày càng phát huy hiệu quả và trở thành chiến lược dài hạn trong thích nghi với mặn hóa. Ngành nông nghiệp đã và đang đẩy mạnh tái cơ cấu theo hướng thích ứng với điều kiện thủy văn mới như: chuyển đổi mùa vụ để né mặn, lựa chọn giống cây trồng vật nuôi chịu mặn tốt hơn, phát triển mô hình canh tác bền vững như luân canh tôm - lúa, trồng dừa xen canh cacao hoặc trồng lúa - nuôi cá.

Hệ thống cống ngăn mặn Cái Lớn - Cái Bé (Ảnh: VOV)

Mô hình canh tác “thuận thiên” có nghĩa là sống chung và tận dụng điều kiện mặn thay vì chống lại đang dần được thể chế hóa. Điển hình là các mô hình nuôi thủy sản lợ như nuôi tôm thẻ chân trắng, cá đối, nghêu… phù hợp với vùng mặn và mặn nhẹ, không chỉ giúp người dân ổn định sinh kế mà còn tăng hiệu quả kinh tế cao hơn so với canh tác lúa truyền thống. Việc phát triển cây ăn quả chịu mặn như dừa, xoài, mãng cầu, vú sữa… cũng đang là hướng đi triển vọng tại nhiều địa phương.

Cùng với đó, việc nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo mặn sớm được xem là chìa khóa giúp người dân và chính quyền chủ động hơn. Nhiều địa phương đã áp dụng công nghệ thông tin vào công tác dự báo, như hệ thống cảm biến đo độ mặn theo thời gian thực, cảnh báo qua ứng dụng di động, tin nhắn SMS, giúp nông dân biết thời điểm xuống giống, bơm nước phù hợp.

Ở cấp độ chiến lược, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó lấy yếu tố con người làm trung tâm, xác định rõ từng tiểu vùng sinh thái và định hướng phát triển tương ứng. Hệ thống quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đang được triển khai nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng tài nguyên đất, nước, bảo vệ hệ sinh thái, nâng cao chất lượng sống người dân và hướng tới một nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại.

Chương trình trao tặng bồn chứa nước và máy lọc nước cho đồng bào chịu ảnh hưởng hạn mặn tại tỉnh Bến Tre (Ảnh: BIDV)

Ngoài ra, các giải pháp tài chính xanh, huy động nguồn lực quốc tế thông qua các chương trình hợp tác, dự án ODA cũng đóng vai trò thiết yếu. Nhiều dự án như “Tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu vùng ven biển ĐBSCL” (ICMP) do Chính phủ Việt Nam phối hợp với các đối tác quốc tế như GIZ, chính phủ Úc, Đức thực hiện; Dự án “Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững ĐBSCL” (SRL) do Ngân hàng thế giới tài trợ; hay chương trình dành cho người dân vùng hạn mặn “Nước ngọt cho cuộc sống xanh” của BIDV đã và đang tạo ra những tác động tích cực rõ nét.

Đặc biệt, sự tham gia của cộng đồng trong quá trình lập quy hoạch, giám sát môi trường và triển khai các mô hình sinh kế thích ứng đóng vai trò quan trọng. Khi người dân được tiếp cận thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, tín dụng ưu đãi và chủ động thay đổi tư duy canh tác, quá trình chuyển đổi sẽ diễn ra nhanh hơn, bền vững hơn.

Thích ứng với xâm nhập mặn không chỉ là vấn đề kỹ thuật hay đầu tư, mà là quá trình thay đổi tư duy phát triển, đặt con người và môi trường vào trung tâm. Đó là hành trình dài hơi, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa trung ương, địa phương, giữa nhà nước, doanh nghiệp, người dân và sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế. Việt Nam không thể tránh khỏi xu thế mặn hóa, nhưng hoàn toàn có thể thích nghi chủ động để chuyển nguy thành cơ, hướng tới một tương lai nông nghiệp sinh thái, kinh tế xanh và phát triển bền vững.

​​​​​​​

Linh Chi

Bình luận

Bài viết cùng chuyên mục

Giải quyết bài toán xâm nhập mặn ở Việt Nam

Hải Phòng đẩy nhanh tiến độ dự án phát triển đô thị thích ứng biến đổi khí hậu

Cà Mau đầu tư mạnh cho môi trường và khí hậu

Nâng cao năng lực bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu tại Quảng Trị

Khánh Hòa nỗ lực đưa phát thải ròng về 0

Khung pháp lý mới cho hoạt động trao đổi tín chỉ các-bon tại Hải Phòng