Sign In

Thúc đẩy chính sách và hành động cho phát triển bền vững của Việt Nam

08:57 14/12/2025

Là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, Việt Nam đang đẩy mạnh các chính sách và hành động nhằm thích ứng chủ động, bảo đảm an ninh sinh thái, ổn định sinh kế và phát triển bền vững.

Từ sau khi Thỏa thuận Paris được thông qua năm 2015 và chính thức có hiệu lực năm 2016, Việt Nam đã thể hiện rõ cam kết quốc tế thông qua việc đệ trình Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), trong đó xác định mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Cam kết này được Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định tại Hội nghị COP26, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong việc cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với khủng hoảng khí hậu toàn cầu.

Theo NDC cập nhật, đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu giảm 15,8% lượng phát thải khí nhà kính bằng nguồn lực trong nước và có thể đạt mức 43,5% nếu nhận được hỗ trợ quốc tế. Cùng với hợp phần giảm nhẹ, NDC của Việt Nam còn bao gồm hợp phần thích ứng, nhấn mạnh việc nâng cao năng lực chống chịu của các hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội trước tác động ngày càng nghiêm trọng của khí hậu cực đoan.

Để cụ thể hóa cam kết này, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu (NAP). Đây là văn kiện trung và dài hạn nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương, tăng khả năng phục hồi và tích hợp biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch phát triển ở mọi cấp, mọi ngành. Việc liên kết NAP với NDC giúp tối ưu hóa nguồn lực, tránh chồng chéo giữa các hoạt động giảm nhẹ và thích ứng, đồng thời khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân và cộng đồng quốc tế.

Dự án điện gió ven biển tỉnh Cà Mau (Ảnh: thanhnien.vn)

Song song đó, Việt Nam tham gia nhiều sáng kiến toàn cầu như Liên minh Hành động Thích ứng Toàn cầu (AAC), Tuyên bố Glasgow về Rừng và Sử dụng đất, và Tuyên bố Emirates về Nông nghiệp bền vững. Các cam kết này không chỉ góp phần bảo vệ tài nguyên rừng, đảm bảo an ninh lương thực, mà còn giúp huy động nguồn lực tài chính và kỹ thuật quốc tế phục vụ cho mục tiêu thích ứng và phát triển nông nghiệp xanh.

Về khung chính sách trong nước, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 xác định mục tiêu then chốt là nâng cao năng lực thích ứng, giảm rủi ro thiên tai và bảo đảm an toàn cho người dân trước các tác động khí hậu. Đến năm 2030, Việt Nam hướng tới độ che phủ rừng đạt 42%, 95% dân số được cung cấp nước sạch, đồng thời hoàn thành di dời phần lớn các hộ dân sinh sống tại vùng có nguy cơ sạt lở, lũ quét. Tầm nhìn đến năm 2050, hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội sẽ được phát triển đồng bộ, hiện đại và thích ứng hiệu quả với nước biển dâng.

Theo TS. Trần Thị Thanh Nga - Trưởng phòng Thích ứng biến đổi khí hậu, Cục BĐKH, Bộ Nông nghiệp và môi trường: Một trong những tiến bộ nổi bật là việc thiết lập Hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu cấp quốc gia (M&E). Hệ thống này cho phép theo dõi, tổng hợp và đánh giá tiến độ triển khai các chương trình, dự án thích ứng tại các bộ, ngành và địa phương, đảm bảo công tác quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu được minh bạch, thống nhất. Dữ liệu M&E được công khai trên nền tảng trực tuyến (https://adaptation.dcc.mae.gov.vn), góp phần hỗ trợ việc ra quyết định và hoạch định chính sách kịp thời.

TS. Trần Thị Thanh Nga - Trưởng phòng Thích ứng biến đổi khí hậu, Cục BĐKH, Bộ Nông nghiệp và môi trường

Cùng với đó, hàng loạt văn bản pháp lý quan trọng được ban hành nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020, đặc biệt là các Thông tư hướng dẫn về đánh giá tác động, rủi ro, tổn thất do biến đổi khí hậu; và Thông tư 06/2023/TT-BTNMT quy định lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch phát triển. Đây là bước tiến quan trọng giúp đảm bảo mọi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều có tính đến yếu tố khí hậu, hướng tới mô hình phát triển bền vững và thích ứng.

Trong thực tiễn, Việt Nam đã triển khai hàng loạt hoạt động thích ứng hiệu quả như: củng cố đê sông, đê biển, hồ chứa; ứng phó ngập lụt ở các đô thị lớn; phát triển nông nghiệp thông minh; phục hồi rừng và bảo tồn đa dạng sinh học; tăng cường cảnh báo sớm thiên tai và đảm bảo an ninh nguồn nước. Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Nguồn lực đầu tư còn hạn chế, công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ; đội ngũ cán bộ chuyên trách về biến đổi khí hậu còn mỏng; nhận thức của một bộ phận người dân và doanh nghiệp về thích ứng vẫn chưa đầy đủ.

Các chuyên gia cho rằng, để đạt được mục tiêu thích ứng hiệu quả, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, tăng cường đầu tư cho hạ tầng chống chịu, đồng thời huy động mạnh mẽ sự tham gia của khu vực tư nhân, cộng đồng và các tổ chức quốc tế. Thích ứng với biến đổi khí hậu không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội.

Với tầm nhìn dài hạn và cam kết mạnh mẽ, Việt Nam đang khẳng định vai trò tiên phong trong khu vực về ứng phó với biến đổi khí hậu, từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát triển quốc gia xanh, kiên cường và thịnh vượng trong bối cảnh toàn cầu đang cùng hướng tới một tương lai trung hòa các-bon.

​​​​​​​

Thuỳ Lâm

Bình luận

Bài viết cùng chuyên mục

Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm phát thải khí mê-tan tại Gia Lai

Việt Nam tăng tốc thực hiện cam kết Net Zero

Giảm phát thải khí nhà kính: Từ thách thức đến cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam

Thị trường các-bon Việt Nam: Động lực tăng trưởng xanh

Thúc đẩy chính sách và hành động cho phát triển bền vững của Việt Nam

Giảm phát thải khí mê-tan trong trồng trọt: Giải pháp trọng tâm cho nông nghiệp xanh